Mật ong và những điều bạn nên biết

Mật ong và những điều bạn nên biết

Mật ong còn gọi là bách hoa tinh, bách hoa cao, phong đường, phong mật. Tên khoa học là Mel.

 

1/ Nguồn gốc

 

Mật ong là một chất lỏng hơi sền sệt, vị ngọt do nhiều giống ong hút mật của nhiều loại hoa đem về tổ chế biến cô đặc mà thành.

 

Không phải có một giống ong cho mật ong. Ong cho mật có thể thuộc nhiều chi như chi Apis (Apis mellifica, A.ligustica, A.sinen-sis, A.indica, A.dorsata), chi Maligona, Trigona,…

 

Tại Hoàng Liêng Sơn, (Sapa) người ta phân biệt loại ong muỗi (ong nhỏ) chi thứ mật ong trắng và ong khoái (to hơn) cho loại mật ong màu vàng.

 

Những giống ong đều thuộc bộ Cánh mỏng (Hymenoptera họ Ong (Apidae).

 

Ong sống thành đàn từ 25.000 đến 50.000 con trong các tổ ong chúng làm lấy trên những cây ở rừng hoặc trong các thân cân đục lỗ hoặc các hòm đặc biệt, mà người ta làm sẵn cho nó. Càng ngày người ta càng chú ý phát triển nuôi ong, vừa để lấy mật, vừa để tăng thu hoạch hoa màu vì khi ong đi lấy mật, ong giúp cho sự thụ phấn của các loại hoa và tỷ lệ quả đậy nhiều hơn.

 

Trong một số tổ ong, không phải con ong nào cũng đi lấy và làm ra mật ong. Mỗi tổ ong đều có 3 loại ong: ong chúa, ong đực và ong thợ.

 

Ong chúa là con cái duy nhất trong cả đàn. Ong này chỉ có nhiệm vụ đẻ trứng. Ong chúa dài và to hơn các con ong đực và ong thợ, thân hình mảnh dẽ và cánh ngắn hơn. Ong chúa cũng do một cái trứng như các trứng ong khác, nhưng từ khi nở ra cho đến khi thành ọng, ấu trùng ong chúa được nuôi bằng một thứ mật đặc biệt chứa trong một ổ riêng do ong thợ xây thêm bên cạnh tầng. Thứ mật đặc biệt này gọi là mật ong chúa hay sữa chúa. Ong chúa sống 3-4 hoặc 5 năm, lâu gấp 50 lần ong thợ. Ong chúa không làm ra mật, chỉ ăn mật do các ong khác đem về.

 

Ong đực xuất hiện vào mùa hè, cũng không làm ra mật mà chỉ ăn những thức ăn có sẵn trong tổ, ngay đến việc ăn cũng phải nhờ ong thợ mới ăn được. Đời sống ong đực ngắn ngủi chỉ 1-2 tháng. Sang thu, ong đực bị đuổi ra khỏi tổ và chết ở trước thềm tổ ong.

 

Ong thợ đi lấy mật, chiếm đa số trong tổ ong. Những con này nhỏ nhắn gọn gàng, bé hơn ong chúa và ong đực. Tuổi thọ trung bình của ong thợ thay đổi tuỳ theo lứa ong. Những lứa sinh vào mùa xuân và hạ thường chỉ sống vào khoảng 6 tuần lễ, những lứa sinh vào mùa thu lại sống tới 6 tháng.

 

Tính chất mật ong thay đổi, tuỳ theo loại hoa. Trong một mùa hoa, người ta đã tính một con ong thợ có thể dừng cánh trên 250 triệu bông hoa. Nhà khoa học Liên Xô Yoi-rich đã đưa ra một phương pháp sản xuất thật nhanh mật ong và biến tổ ong thành một xí nghiệp được phẩm sản xuất những loại mật ong hiếm quý, bằng cách cho ong hút các nhị hoa nhân tạo. Nhờ phương pháp này Yoi-rich đã thu được tới 85 loại mật ong khác nhau, có loại mật ong chứa nhiều vitamin hoặc mật ong có Quinin, có những chất nội tiết,..

 

 

2/ Lấy mật

Ta có thể lấy mật vào 3 mùa xuân, hạ và thu. Nhưng tốt nhất vào xuân hạ. Sang mùa đông, mật vừa ít, vừa ảnh hưởng tới đời sống của ong vì phải để cho ong có thức ăn qua mùa rét lạnh không có hoa.

 

Hằng năm ở Việt Nam, thường lấy mật vào tháng 8, tháng 6, đôi khi cả vào tháng 9.

 

Thường lấy mật vào buổi sáng và trưa là lúc ong bay đi ra ngoài nhiều, nhấc cầu của tổ ong lên, dùng dao sắc, lưỡi mỏng cắt lấy tầng ong, để lại tầng có nhộng và ấu trùng và những tầng đang xây dở dang.

 

Cắt tầng thành từng miếng nhỏ, đặt trên các thanh tre kê ở mặt chiếc chậu khô và sạch, rồi đem phơi nắng. Nhờ sức nóng của mặt trời, sáp của tầng bị chảy lỏng, mật được giải phóng và chảy xuống thau. Loại mật này tốt nhất có màu vàng nhạt.

 

Sau đó đun nóng và ép nhẹ sẽ được một thứ mật màu sẫm hơn. Cuối cùng đun nóng già và ép kỹ hơn thì được loại mật có màu sẫm hơn nữa vì một số mật bị cháy thành caramen, cho màu nâu sẫm. Hai loại mật sau kém hơn, vì có lẫn sáp và một số tạp chất khác.

 

Hiện nay tại các nước sản xuất nhiều mật ong, cũng như ở nhiều nơi trong nước ta người ta dùng máy ly tâm để lấy mật: nhấc tầng ong, cho vào chiếng lồng bằng thép có mắt cáo nhỏ và quay thật mạnh. Mật sẽ được vung ra. Hứng lấy để lắng một thời gian rồi gạn lấy mật. Như vậy ong đỡ mất công xây lại tầng và cho nhiều mật hơn.

 

3/ Tính chất của mật ong

Tính chất của mật ong thay đổi tuỳ theo từng vùng, từng tỉnh và thời kỳ lấy mật. Đặc biệt, mật ong có thể có chất độc nếu ong hút mật ở những cây hoa có đọc như hoa phụ tử, hoa thuốc lá, hoa cà độc dược. Tại các nước, người ta đã chứng kiến những vụ ngộ độc do ăn mật ong có chất độc.

 

Mùi và vị của mật ong cũng như giá trị của mật ong phụ thuốc và các loại hoa có trong vùng. Đó là cơ sở khoa học của sự phân biệt mật ong ra mật ong Cao Lạng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh,…của ta.

 

Khi soi mật ong dưới kính hiển vi, ta sẽ thấy phần hoa của nhiều loại cây khác nhau, người ta có thể dựa vào sự có mặt của một số loại phấn hoa để xác định mật ong của vùng nào.

 

Các loại mật ong màu vàng nhạt, mặt gợn như đường, có đường kết tinh ở dưới. Có người cho đó là loại tốt nhất. Nhưng thực tế cũng có những loại mật ong lỏng, trong, không đóng đường mà vẫn tốt và có loại mật ong có màu sẫm hơn, cũng là loại mật ong tốt. Hiện nay chúng ta chưa thể chỉ dùng nhận xét bề ngoài để đánh giá mật ong tốt xấu hoặc thực giải, mà phải nghiên cứu thành phần hoá học.

 

4/ Thành phần hoá học mật ong

Mật ong không phải là một chất do con ong bài tiết. Chủ yếu nó là mật hoa được con ong chế biến và cô đặc lại. Trong mật hoa, tỷ lệ mước lên tới 40 đến 80%, còn trong mật ong chỉ có 15 đến 20% nước. Thành phần của mật ong thường và mật ong chúa cũng khác nhau.

 

Trong mật ong thường có 65-70% Glucosa và Levuloza, 2-3% Sacarosa (nếu ong nuôi bằng mật mía hoặc ở gần nơi có đường mật thì tỷ lệ Sacarosa còn tăng nữa tới 10% hoặc hơn, vì trong nước dãi con ong không có đủ men Invectin để biến cả Sacarosa thành Glucosa và Levuloza.

 

Ngoài ra còn có muối vô cơ, các axit hữu cơ (axit focmic, axetic, tactric, malic) các men tiêu hoá chất béo (lipaza), chất bột (amylaza), men tiêu hoá chất đường (invectin), một ít tinh bột, protit, sáp, sắc tố, chất thơm, phấn hoa.

 

Mật ong Nhật Bản có chứa axit pantotenic 0,99 y/g, axit nicotinic 0,92y/g, axetycolin 12-15y/g, vitamin A, D, E.

 

Trong mật ong chúa hay sữa chúa tỷ lệ đường ít hơn, nhiều chất mỡ, chất đạm dưới dạng axit amin trong đó rất nhiều xyatin là một axit amin có sunfua và vitamin. Chúng ta biết rằng do được nuôi bằng mật ong chúa, ấu trùng trở thành con ong chúa sống lâu gấp 5- lần ong thợ, lại đẻ trứng được.

 

Phát hiện giả mạo, người ta thường làm giả mật ong bằng mật mía, nước thuỷ phân tinh bột hoặc siro. Mật ong của những con ong ăn đường hoặc mật mía có tỷ lệ Sacarosa cao. Ngoài việc định lượng các thành phần của mật ong người ta làm những thí nghiệm sau đây

 

a. Pha một phần mật ong và 2 phần nước. Dung dịch này phải có phản ứng axit vì trong mật ong có các axit hữu cơ. Nhưng không được có axit vô cơ như axit clohydric hoặc sunfuric.

 

Mật ong pha loãng với 2 phần nước rồi lọc, thêm axit nitric loãng và bạc nitrat không được có tủa (clorua) túc là có axit clohydric.

 

Thêm bary cloruc không được tủa (sunfat) túc là có axit sunfuric

 

b. Mật ong thêm dung dịch iot không được ngả màu đỏ (chứng tỏ có dextrin) hay màu xanh (có tinh bột)

 

c. Mật ong thêm oxalat amon và axit axetic không được kết tủa (nếu tủa là có canxi vì như vậy có thể giải mạo bằng siro glucosa)

 

d. Soi kính hiển vi một giọt mật ong chỉ được thấy ít mảnh sáp, ít hạt phấn hoa (dựa trên hạt phấn hoa có thể tim nguồn gốc của mật ong).

 

e. Ta có thể định lượng axit phophoric trong tro của mật ong: mật ong tự nhiên có chừng 0,01-0,08% P2O5 trong khi mật nhân tạo chỉ có rất ít.

 

 

5/ Tác dụng sinh lý của mật ong

 

Mật ong là một vị thuốc bổ: tại Liên Xô giáo sư Udinisev đã cho một số bệnh nhân vị bệnh lao uống mỗi ngày từ 100 đến 150g mật ong, thấy sức khoẻ bệnh nhân ngày một tăng tiến; thể trạng và máu bệnh nhân tốt hơn.

 

Mật ong có thể làm giảm độ axit của dịch vị, độ axit dạ dày trở thành bình thường và làm cho hết các triệu chứng đau xót khó chịu của bệnh loét dạ dày và ruột (theo kết quả điều trị của bệnh viên Ostronnop ở Maxcova và một số bệnh viện khác ở Liên Xô). Các bệnh nhân bị loét dạ dày và ruột điều trị bằng mật ong đều lên cân, sự tiêu hoá tiến triển tốt hơn.

 

Mật ong có thể dùng trong việc điều trị chứng bệnh về gan, túi mật và một vài bệnh về thần kinh. Mật ong còn là một thứ thuốc an thần tốt giúp cho giấc ngủ được ngon và làm bệnh nhân đỡ nhức đầu.

 

Mật ong tiêu diệt được một số vi trùng. Một số nhà bác học Liên Xô ở Kiep la Nacht, Chadimenko, Moros đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều loại mật ong, đối với nhiều loại vi trùng gây bệnh như Staphylococ, Streptôcc, vi trùng lỵ, thương hàn,…Kết quả của trên 2000 thí nghiệm đã chứng minh một vài loại mật ong có tính chất tiêu diệt hoặc ngăn cản sự phát triển của vi trùng.

 

Sự nhiên cứu này giúp ta hiểu một phần tại sao mật ong tìm thấy trong một kim tự tháp ở Ai Cập mặc dầu để đã hơn 3000 năm mà không bị cạn, bị hỏng và còn giữ nguyên vị thơm ngon.

 

Trên cơ sở nghiên cứu này, mật ong được dùng tại một số bệnh viên ở Liên Xô để điều trị các vết thường do súng đạn (nhà phẫu thuật Liên Xô Krinixki đã nhận thấy thuốc mỡ chế bằng mật ong làm cho vết thương chóng thành sẹo). Mật ong còn dùng xông hơi điều trị những bệnh ở đường khó quản (viêm niêm mạc đường khí quản) uống chữa bệnh cảm lạnh (uống mật nguyên chất hoặc trộn với chanh hay sữa). Mật ong còn dùng băng bó điều trị các mụn nhọt và giáo sư Pletneva ở Viện y học số 2 Maxcova còn dùng mật ong để chữa những bệnh nhân có thương tổn ở giác mạc.

 

Mật ong có tính chất phóng xạ. Nhà bác học Pháp là Aain Queille đã chứng minh rằng một vài loại mật ong có tính chất phóng xạ; ông đã đem mật ong đổ vào nhiều cốc thuỷ tinh khác nhau, sau một thời gian thấy mật ong tác động đối với phim ảnh đựng trong các giấy đen.

 

6/ Công dụng và liều dùng

Mật ong được dùng làm thuốc từ lâu. Theo tài liệu cổ, mật ong có vị ngọt, tính bình vào 5 kinh tâm, phế, tỳ, vị và đại tràng. Có tác dụng thanh nhiệt bổ trung, nhuận táo, hoạt trường, giải đọc, hết đau. Dùng chữa tỳ vị hư nhược, táo bón, ho, đau bụng, giải độc ở đầu, dùng ngoài chữa lở miệng, vết thương bỏng.

 

Thuốc bổ cho người lớn và trẻ em, chữa bệnh loét dạ dày và ruột, an thần, chữa nhức đầu và một số bệnh về thần kinh, bệnh ho khan, viêm họng.

 

Ngày dùng 20-50g. Có thể dùng tới 100-150g nhưng với liều này có thể nhuận tràng. Uống riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.

 

Có khi người ta chế mật ong thành thuốc tiêm, làm thuốc bổ toàn thân

 

Dùng ngoài chế thành thuốc mỡ hay nguyên chất đắp lên các mụn nhọt, vết loét, vết thương.

 

Làm tá dược chế thuốc viên hay các dạng thuốc khác

 

Chú thích

 

Ngoài mật ong, sữa chúa ra con ong còn cho ta nọc ong được dùng điều trị có kết quả một số bệnh tê thấp, bệnh viêm dây thần kinh ngồi (thần kinh toạ). Nhưng nọc ong là loại thuốc mạnh, nguy hiểm, khi dùng cần có sự theo dõi chỉ dẫn của thầy thuốc.

 

Gần gây, người ta còn sử dụng phấn hoa do con ong mang về với mục đích làm thức ăn nuôi ong ong. Trong phấn hoa có các axit amin, chất béo, gluxit, vitamin.

 

7/ Đơn thuốc có mật ong

Đơn thuốc chữa loét dạ dày, và tá tràng
 

Mật ong 10g; cam thảo sống 10g; trần bì 6g; nước 400ml. Trước hết sắc cam thảo và trần bì với nước, cô cạn còn 200ml thì lọc, bỏ bã. Thêm mật ong vào chia làm 2 hay 3 lần uống trong ngày.

 

Đơn thuốc chữa cao huyết áp, táo bón
 

Mật ong 60g; cùng đen (tức hắc chi ma) 50g. Trước hết nấu vừng cho chín giã cho nát rồi thêm mật ong và chừng 200ml nước vào khuấy đều, chia làm 2 lần uống trong ngày sáng và tối.

 

Mật ong sữa chúa (mật ong có chứa 2-4% sữa chúa) làm thuốc bổ cao cấp
 

Ngày uống 2-3ml, ngậm trong miệng cho đến khi tan hết.

 

Trích “Những cây thuốc và vị thuốc việt nam – Đỗ Tất Lợi”

Đang xem: Mật ong và những điều bạn nên biết

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng